Đạo Mộ Bút Ký 1

Chương 62: Liên Hoàn


Điều này thực sự xưa nay chưa từng có, cho dù là bánh tông thì hắn cũng mới chỉ gặp loại biết đi lại nhảy nhót chứ chưa thấy cái nào biết cười bao giờ. Trương Khởi Linh thót dạ, vội giật lùi lại một bước, tập trung toàn bộ tâm trí đề phòng chuẩn bị ứng phó với động thái tiếp theo của nó. Ai ngờ cánh tay vốn chỉ lên trời của cái xác khô bỗng nhiên động đậy, chuyển sang chỉ hướng đông, đồng thời cả gian phòng đột ngột tối sầm, dạ minh châu trên bảo đỉnh không biết vì sao phụt tắt trong nháy mắt.

Lúc họ tiến vào vì muốn tiết kiệm pin nên ai cũng tắt đèn, giờ tối om khiến mấy người kia sợ quá hét toáng lên. Trương Khởi Linh phát hiện tuy căn phòng tối đi nhưng không đến nỗi biến thành một vùng đen đặc, vội ngẩng đầu lên thì phát hiện bốn viên dạ minh châu ở gần bốn bức tường nhất vẫn chưa hề tắt, giống như những ngọn đèn đường mờ sáng trên phố về đêm, chỉ có thể chiếu sáng một khu vực nhỏ. Lúc này ở bên cạnh vang lên giọng nói run rẩy của Lý Tử: “Trên tường có… có… mặt!”.

Trương Khởi Linh rùng mình, vội ngoảnh đầu nhìn thì chỉ thấy chỗ tường gạch vàng nơi viên dạ minh châu phía đông chiếu sáng đã xuất hiện biến đổi về quang ảnh, tự dưng mọc ra một mặt người to lớn trắng bệch.

Trương Khởi Linh biết đây chắc chắn lại là một trò đùa, hắn bực bội nhảy khỏi bục đá đi đến bức tường phía đông quan sát, phát hiện trên tường thực ra là một bức tranh bóng. Loại tranh này khi ánh sáng chiếu vào từ một góc độ cố định nào đó sẽ khiến bóng của rãnh gạch chiếu xuống mà hình thành, nếu góc độ tia sáng không đúng thì tranh sẽ không xuất hiện. Vì điều kiện ánh sáng ở đây quá quái dị, lại thêm tình trạng cực độ căng thẳng nên rất dễ khiến người ta tưởng tượng ra hình mặt người đáng sợ.

Hắn nhìn kỹ, không khỏi giật mình. Bức tranh trước mặt hình như là tranh kể chuyện, nội dung có lẽ là thuật lại tình hình Vân Đỉnh Thiên Cung lúc mới hoàn thành. Hắn trông thấy cái gọi là Thiên Cung, kỳ thực được xây trên một dãy núi cực kỳ cheo leo hiểm trở, đỉnh núi mây mù che phủ khiến cả cung điện như bị bao trùm, vì thế mới khiến người ta có cảm giác cung điện lơ lửng trên mây. Trương Khởi Linh nhìn cảnh tượng trên ngọn núi thấy tuyết phủ trắng xóa, có lẽ độ cao so với mực nước biển khá lớn, không biết là ngọn núi nào nữa.

Hắn ngoảnh nhìn phát hiện trên cả bốn bức tường đều có tranh vẽ, vội đi sang bức tường phía nam xem tiếp. Bức tranh này vẽ cảnh vách đá bên dưới Thiên Cung, có rất nhiều hang đá được nối với nhau bằng cầu treo, một đoàn thợ đang dùng một cái “khô cao” (xe cẩu) kéo một cỗ quan tài cực lớn theo vách đá lên lần lượt từng cái hang. Đội ngũ đưa tang xếp thành một hàng, gian nan bước trên cầu treo để leo lên. Trương Khởi Linh a một tiếng, Thiên Cung này chẳng lẽ lại là một lăng mộ? Bên trong chiếc quan tài đó là ai?

Hắn tiếp tục đi đến chỗ bức tranh phía tây, bức này lại càng kỳ quái. Chỉ thấy lửa bốc cháy ngùn ngụt trên cầu treo vách đá, có lẽ là binh linh canh giữ lăng mộ đã thiêu hủy con đường duy nhất dẫn đến Thiên Cung sau khi nghi lễ nhập liệm kết thúc để đảm bảo an toàn cho lăng mộ. Làm như vậy về cơ bản sẽ có thể ngăn chặn mọi hành vi trộm mộ quy mô nhỏ, bất kể là Nam phái hay Bắc phái đều không ai có khả năng lên một nơi quá cao so với mực nước biển như thế này. Leo vách núi mấy trăm mét để đổ một cái đấu, điều này không thể và cũng không đáng.

Trong ký ức của hắn chưa từng gặp ngôi mộ nào chôn kiểu này nên kinh ngạc lắm, vội chạy đến chỗ bức tranh cuối cùng, vừa nhìn đã sững người ra bởi vì bức tranh đó vẽ đơn giản đến không ngờ: Thiên Cung trên đỉnh núi bỗng nhiên biến mất, chỉ còn lại tuyết trắng bao la, không những thế, cả vách núi cũng bị bao trùm trong một màu trắng xóa. Tuy không sinh động lắm nhưng Trương Khởi Linh đã biết có lẽ đây là một vụ lở tuyết.

Hắn đoán rất có thể do ngọn lửa đã làm nhiệt độ tăng cao, tuyết đóng phía trên Thiên Cung bị lỏng tạo ra một trận tuyết lở quy mô lớn, không những vùi lấp toàn bộ Thiên Cung bên dưới mà còn che phủ cả ngọn núi, biến cung điện thành một nấm mồ thực sự.

Xem đến đây khiến hắn bất giác thở phào, thật không ngờ vận mệnh cuối cùng của Vân Đỉnh Thiên Cung này lại như vậy. Xem ra Uông Tàng Hải có vẻ canh cánh trong lòng chuyện này lắm, kiệt tác của mình hoàn thành chưa được bao lâu đã bị tuyết lở đè hỏng, đủ khiến lão ôm hận đến chết. Chả trách lão phải đem chuyện này ghi lại thông qua một phương thức bí ẩn thế này, có lẽ đây là lăng mộ của một nhân vật hiển hách nào đó. Uông Tàng Hải chắc chắn không thể công bố tác phẩm này ra ngoài, nhưng với tính cách ưa khoe mẽ, hẳn lão sẽ dùng cách nào đó để người đời sau biết trong số tác phẩm của mình còn có một tòa Vân Đỉnh Thiên Cung hoành tráng cỡ này.

Hiện giờ chỉ có duy nhất một điều không rõ, đó chính là ngôi mộ này chôn cất ai. Trương Khởi Linh hít sâu một hơi, lúc này hắn chợt thấy Văn Cẩm và hai người khác đang thử xê dịch tấm gương lớn ở góc đông nam. Hắn cảm thấy rất kỳ lạ, vội hỏi họ đang làm gì thì Văn Cẩm lo lắng nói: “Tôi vừa trông thấy Tam Tinh nấp đằng sau tấm gương, loáng một cái đã không thấy đâu nữa”.

Bấy giờ Trương Khởi Linh mới nhớ ra chuyện chú Ba nên vội vàng chạy đến giúp một tay. Tấm gương đồng mạ vàng khắc hoa chữ “Phúc” cao hai mét này cực kỳ nặng, họ dùng hết sức lực mới nhích ra được nửa mét. Cả đám ló đầu nhìn, chỉ thấy ở trên tường phía sau gương có một cái lỗ vuông cao tầm nửa người. Trương Khởi Linh chiếu đèn vào, bên trong tối thui không rõ là dẫn tới đâu nữa.

Mấy hôm trước khi Ngô Tam Tinh phác họa sơ lược kết cấu địa cung không hề phát hiện ra nơi này còn có một căn phòng lớn, nhưng Trương Khởi Linh đã sớm biết địa cung sẽ không đơn giản như vậy. Mộ thuyền chìm và mộ đất liền khác hẳn nhau, có thêm quá trình chìm thuyền, quá trình này đòi hỏi thuyền phải giữ thăng bằng tuyệt đối, vì thế yêu cầu đối xứng của lăng mộ cực kỳ cao. Địa cung chú Ba phác thảo ra tuy không có sai lầm nào về nguyên tắc nhưng lại bị đầu nặng chân nhẹ rất rõ ràng, nếu dùng kết cấu này để thuyền chìm thì chắc cả ngôi mộ sẽ lật úp xuống biển mất.

Lúc ấy hắn chả buồn đứng ra phản bác nên đã không nói với Ngô Tam Tinh, giờ nhớ lại, nếu nơi này có một đường hầm dùng để giữ thăng bằng thì cũng không có gì là kỳ lạ.

Hắn giải thích qua cho mọi người hiểu rồi bật đèn chui vào đầu tiên. Vì đèn vẫn bật từ lúc vào hang trộm tới giờ nên pin yếu hẳn, Văn Cẩm bảo mọi người bật đằng trước đằng sau mỗi phía một chiếc, còn những người khác tắt hết. Đường hầm đá này khá rộng, gần như có thể cho bốn người cùng đi ngang hàng. Hoắc Linh thấy Trương Khởi Linh và Văn Cẩm đi gần nhau quá, không khỏi khó chịu, liền chen lên đi cùng. Lúc này Trương Khởi Linh đã cảm thấy sự việc có chút không đúng, hắn lờ mờ trông thấy trong bóng tối có thứ gì đó đang cựa quậy.

Cùng lúc ấy, trong không khí sực lên một mùi hương mỗi lúc một nồng cũng thu hút sự chú ý của hắn. Cảm giác bọn họ dường như đang đi đến gần nguồn gốc của mùi hương, đi thêm mấy bước thì mùi hương đã thơm đến mức hắn không tài nào tập trung tinh thần được nữa, ngoái đầu định hỏi Văn Cẩm, chợt phát hiện mấy người đi sau đã ngã hết ra đất. Văn Cẩm xoa trán mơ màng nhìn Trương Khởi Linh rồi cũng ngã vào lòng hắn.

Trương Khởi Linh thầm kêu không ổn, lập tức nín thở nhưng đã không kịp nữa rồi. Hắn chỉ thấy có một cơn buồn ngủ không sao cưỡng được ập đến, liền dựa vào tường, sau đó thì dần mất đi ý thức. Trong cơn mơ màng, hắn trông thấy chú Ba ngồi xuống nhìn hắn với vẻ mặt không chút biểu cảm.

Bình Kín Miệng nói đến đây thì hít sâu một hơi, im lặng giây lát rồi nói: “Lúc tôi tỉnh lại thấy mình đang nằm trên giường bệnh, không còn nhớ gì, cũng không biết gì. Tận mấy tháng sau mới bắt đầu nhớ ra một ít ký ức vụn vặt, lại qua mấy năm, tôi bắt đầu phát hiện cơ thể mình có chút vấn đề”.

Tôi không kìm được định chen ngang hỏi hắn có phải hắn phát hiện mình không bị già đi hay không, nhưng hắn không cho tôi cơ hội này mà nói tiếp luôn: “Hiện giờ tôi chưa thể nói cho cậu biết là vấn đề gì, có điều ba tháng trước tôi gặp chú Ba của cậu, thấy ông ấy rất quen mắt nên đã đi theo đến Lỗ vương cung, hy vọng sẽ nhớ ra nhiều chuyện hơn”. Kể đến đây, bỗng nhiên hắn quay sang nhìn tôi, nói: “Ở trong Lỗ vương cung, tôi phát hiện ra chú Ba của cậu rất có vấn đề”.

Tôi ngẩn người không hiểu, hắn nói tiếp: “Mảnh sách lụa chỉ vàng các cậu lấy ra từ cỗ quan tài đồng xanh thực ra là giả, đã bị chú Ba của cậu đánh tráo từ lâu rồi”.

Tôi ngạc nhiên kêu: “Nói bậy! Bà nó chứ, không phải bị cậu đánh tráo sao?”.

Bình Kín Miệng thản nhiên liếc tôi, nói: “Không phải, là chú Ba cậu làm. Ông ấy và Khuê béo đào hang từ sau thân cây đến thẳng đáy quan tài, có lẽ đó là nguyên nhân tại sao Khuê béo bắt buộc phải chết”.

Tôi nghe mà lạnh toát cả người, cảm thấy căng thẳng hơn bao giờ hết. Tuy tôi vẫn muốn đứng về phía chú Ba nhưng trong đầu lại như có tia chớp xẹt qua, vô số hình ảnh xuất hiện. Tôi nhớ ra Khuê béo đã trúng độc như thế nào, nhớ ra Phan Tử trước khi leo lên cây vẫn còn rất tỉnh táo, thế mà lúc chúng tôi lên mặt đất gã đã rơi vào trạng thái hôn mê sâu, nhớ ra lúc tôi và tên mập chưa trèo qua khe nứt mà chú Ba đã vác can xăng chạy đến.

Tôi không thể tiếp tục hồi tưởng nữa, cảm thấy mọi thứ trên đời này đều điên đảo hết rồi, không biết ai mới là người nói thật, ai là tên lừa đảo. Rốt cuộc tôi phải tin ai đây? Tôi thấy đầu óc mình rối tung, bắt đầu lẩm bẩm một cách mất kiểm soát: “Không đúng, không đúng, sự việc không đơn giản như vậy, không có động cơ, rốt cuộc tại sao chú Ba lại làm thế?”.

Bình Kín Miệng thản nhiên: “Nếu người đó thực sự là chú Ba của cậu thì đúng là không có động cơ, nhưng…”, nói đến đây hắn thở dài một tiếng.

Tôi không hiểu ý hắn, nhưng trong lòng dường như đã tin lời hắn nói rồi. Bất giác cười khổ, thì ra trước giờ tôi vẫn luôn nghĩ rốt cuộc chú Ba có bao nhiêu chuyện gạt tôi, giờ tôi phải nghĩ theo hướng khác, nghĩ xem chú đã không gạt tôi những chuyện gì.

Sự việc phát sinh biến hóa này tôi thực tình không ngờ tới, nhưng giờ có nghĩ cũng vô ích. Bất kể lời ai thật ai giả đều phải đợi khi nào chúng tôi thoát ra ngoài mới có ý nghĩa, chứ nếu chết ở đây thì biết chân tướng cũng chẳng giải quyết được gì.

Nghĩ đến đây, tôi vội vã định thần lại để bản thân thả lỏng một chút. Lúc này tôi phát hiện tên mập đã đi tới phía trước tấm bia, gượng gạo ngồi xuống, tay làm dáng “lan hoa chỉ[1]” ưỡn ẹo chải đầu, tôi chau mày, gọi: “Tên mập chết tiệt, mẹ nó, ông lại định giở trò gì đây? Ông không yên ổn cho tôi nhờ một lát được à?”.

[1] Lan hoa chỉ: Là dáng bàn tay với ngón cái và ngón giữa chạm vào nhau, ba ngón còn lại xòe ra. Hiện nay tư thế này chỉ có phái nữ dùng, chủ yếu trong các phim cổ trang và kinh kịch.

Y ngoái đầu lại giả giọng con gái, nói: “Con bà nó, ai gia đang chải đầu, chải đầu cũng làm cậu mất mạng chắc, cậu cằn nhằn cái gì?”. Tôi thực sự hết cách, hỏi y: “Chải đầu? Chẳng lẽ ông cũng muốn tìm cái Sinh môn đó để lên ngắm à?”.

Tên mập nói: “Đương nhiên, cảnh tượng hoành tráng như vậy ông mập đây sao có thể bỏ qua. Huống hồ lần này chúng ta đi xuống cũng chẳng dễ dàng gì, con mụ đó lại đã chạy mất hút, xem ra tiền công của chúng ta cũng khỏi trông chờ nữa. Gì thì gì cũng phải kiếm mấy viên dạ minh châu về, có câu nhà giàu không đổ đấu, đổ đấu không về tay không đấy thôi”.

Tôi mắng y: “Chắc nãy giờ nghe chuyện ông chỉ nghe lọt mỗi mấy chữ ‘dạ minh châu’ phỏng?”.

Y không phục, nói: “Haizzz, cậu không thể nói như thế được. Ông mập đây muốn vào Sinh môn là vì còn một nguyên nhân cực kỳ quan trọng khác, hai người có biết là gì không?”.